Monday, July 20, 2009

VĂN TẾ CHIẾN SĨ HY SINH VÌ TỔ QUỐC

Than ôi!


Bừng con mắt mà nhìn xem nước mới


Việt Nam Độc Lập khắp ba Kỳ chung một ngọn cỏ


Chạnh tấm lòng sực nhớ người xưa


Chiến sĩ hy sinh dưới chín suối biết bao người mệnh bạc


Hồn Tổ Quốc bơ vơ trong trời đất trở về đây mà nghe tiếng hoan hô


Khí anh hùng hun đúc tự ngàn xưa quay quần lại mà nếm mùi cộng lạc


Các Đấng Tiên Linh xưa!


Nhân cách thanh kỳ


Thiên tư lỗi lạc


Giống Bạch Việt đầu đen máu đỏ trải Đinh Lê qua Lý Trần cho đến Hậu Lê Hoàn Nguyễn phá quân Mường bình giặc Mọi dong ruổi rừng tên lưới đạn đúc xương đồng mà chống đỡ non vàng.


Cõi Viêm Bang rốn cắt nhau chôn từ Bắc Hà vào Thanh Nghệ lần vô Thuận Quảng Sài Thành, tuôn đất Lạp đạp thành Chiêm, xông pha nón gió tơi mưa phơi gan sắt mà lấp vùi biển bạc.


Giang sơn sanh tuấn kiệt đã đành.


Thời thế tạo anh hùng là khác.


Dong ngựa sắt Đổng Thiên Vương phá tặc, khói anh linh mây phủ núi Châu Sơn.


Phất khăn hồng Trưng Nữ Tướng hưng binh, gương tiết liệt trăng in hồ Lãng Bạc


Nào những lúc Bình Ngô Lê Thái Tổ, thảo Mãn Nguyễn Quang Trung công đức ấy ngàn thu ghi tạc huân lao lịch đại rõ ràng sự nghiệp quốc triều càng to tác.


Rưới mưa móc thấm miền Thuận Quảng áo dày cơm nặng khúc Hoài Nam còn nhớ lúc tài bồi.


Phát chông gai mở đất Nam Kỳ, tấc đất ngọn rau bia kỷ niệm, vẫn ghi công khai thác.


Cơ đồ nhờ đó mà vững bền.


Tộc loại càng ngày thêm phát đạt.


Không may cùng trời đất giun ruổi cõi Á Đông gặp lúc truân chuyên miền Nam Thổ vào hồi trụy lạc oai cường bạo như hum beo có cánh, nào Mỹ nào Nga, nào cường Anh, đại Pháp đã hăm hở mài nanh chuốt vuốt, vạch đường mây mà nhả độc sài lang.


Phận yếu hèn như tôm tép không vây. Kìa Ba, kìa Án, kìa Miến Điện, Xiêm La rụng rời lạc vía xiêu hôn theo làn sóng mà vào hàm kình ngạc.


Hỡi ôi !


Mỗi tiếng súng nổ vàng ngoài Thuận Hải nước non nhà cùng chung kiếp điêu linh. Ba sắc cờ phấp phới giữa Hoành Sơn, cây cỏ cũ đã thấy màu xơ xác.


Chén thuốc độc liều mình Phan Thanh Giản, đất Nam Kỳ sáu tỉnh tiêu hao.


Bát trà suông kết liễu Nguyễn Tri Phương, thành Hà Nội bốn bề tan tác.


Tổng đốc Diệu trảo bao phen chống cự hết lòng vì nước, quyết tồn vong mà thề với cô thành.


Phò mã Lâm sau mấy trận xông pha tử tiết cùng cha, liều tánh mạng mà phó cho đại bác.


Thảm thương vì vận nước linh đinh


Xao xác bấy lòng người tan tác


Đoàn ứng nghĩa Cần vương ra đứng trước, nào Phan Đình Phùng, nào Hoàng Hoa Thám lặn lội trong miền sơn cước, đạn vô tình cam thịt nát xương tan.


Đảng xuất dương cách mạng nối theo sau, nào Tăng Bạt Hổ, nào Phan Bội Châu linh đinh ngoài cõi trùng dương, thân vô định mặc bèo trôi sóng dạt.


Quơ ngọn bút kêu gào đất khách đến chết không quên nước cũ, bên chùa Kim Lãnh Nguyễn Thương Hiện khí cốt vẫn thanh cao.


Ném quả bom rầm rột quê người, dẫu chưa giết được kẻ thù, trước mộ Hoàng Cương Phạm Hồng Thái thanh danh càng hách trạc.


Khất sưu vụ Nghĩa Hòa trong Đại Lộc sôi nổi xiết bao thân sĩ vì đồng bào mà quyết chí hy sinh.


Xướng dân quyền Quý Cáp với Châu Trinh chứa chan một tấm nhiệt tình vì Tổ Quốc mà đem thân gánh vát.


Nào những thuở Duy Tâm xướng nghĩa, đem tánh mạng đền ơn minh chúa, Trần Cao Vân khẳng khái dưới gươm đao.


Nào những khi Yên Bái đồ mưu, lấy đầu lâu trả nợ quốc dân Nguyễn Thái Học ung dung trên đảnh vạc.


Cổ Am nọ là huyệt sào Quốc Đảng, lá trung can đốt cháy dưới than hồng.


Côn Lôn kia là địa ngục dương gian, đống hiệp cốt lấp vùi trên bãi cát.


Chồng trước mặt quỷ cường quyền lên án, công chẳng có mà tội đành phải có, tội vì nước tội vì dân, tội vì giang sơn xã tắc, phận cô thần bao quản nỗi trầm oan.


Nặng trên đầu thần công lý cầm cân, sống như không mà chết cũng như không: chết vì gươm chết vì súng, chết vì lam chương ba đào, hồn chiến sĩ biết đâu miền minh mạc.


Hỡi ôi !


Bên mô trung nghĩa gió thổi lạnh lùng.


Giọt máu oan cừu mưu tuôn man mác.


Chết là thiệt sống biết làm sao được, cũng tai cũng mắt cũng mặt cũng mày cũng can trường tâm huyết, lệ Tần Đình khô héo giòng quyên.


Trước đã qua sau dầu có thế nào, này cỏ này cây, này non này nước, này thành quách nhân dân, trăn hoa biểu mơ màng bóng hạc.


Lẽ tuần hoàn trời đất há vô tình, giòng đào hảo biết dâu, đâu đã chắc.


Trận Âu chiến đùng đùng sấm dậy, thành Ba Lê một phút tan tành.


Hội Á Liên cuồn cuộn sóng tràn, vung gươm đao bốn bề râng rác phận anh hùng dầu không quản sống còn lòng quốc sĩ lẽ nào quên báo đáp.


Mùi tân khổ xưa từng nếm trải.


Muôn thuở tao phùng một hội, buồn cùng buồng sao vui chẳng chung vui, mối oan cừu nay đã sạch sành sanh, ba sanh thỏa thích mười nguyền, sống phần sống mà thác đành phận thác.


Hỡi Anh Em Đồng Bào Ta !


Nhân ngày Quốc Khánh hoa nở tưng bừng, đứng trước tiềm linh hương bay ngao ngát đem tiểu sử cá nhân ôn lại, kể sao cho xiết.


Mấy giòng chữ máu vẫn chưa phai.


Treo bức tranh liệt sĩ dòm chung, vẽ mấy cho cùng một tấm lòng son đâu dễ lợt.


Nền Độc Lập hiện nay còn sót nổi, biết bao việc học, việc nông, việc công, việc thương, việc quốc gia xã hội.


Nặng hai vai nợ nước ơn vua.


Chữ đồng bào ngẫm lại vẫn đinh ninh, chẳng lựa là anh là là em là cha là mẹ là cố cựu thân bằng chung một giống con Hồng cháu Lạc.


Lòng ái quốc kẻ mất còn cũng vậy, gọi chúng bạn trở về cố quận, dắt dìu nhau mà hiệp lực đồng tâm.


Khí tự cường người sống thác cũng là.


Khuyên anh em bước tới tiền đồ gắng gổ lấy mà đồng lao cộng tác.


NGUYỄN TRỌNG CẨN


(09-03-1945)


PHAN THỊ LIỄU – ĐẶNG HOA ANH


cùng ghi chép lại


(23-09-2002)


Mười sáu tháng tám


Âm lịch Nhâm Ngọ

0 comments:

Post a Comment

Vui lòng chọn "Comment as"
--> Name/URL và để lại tên bạn, đường dẫn nếu bạn hỏi chủ blog việc gì đó và cần hồi âm.
--> Anonymous nếu bạn muốn ẩn danh.
Xin cảm ơn.